Mức xử phạt lỗi vi phạm bản quyền với cá nhân và công ty ?

0
563

Việc vi phạm, xâm phạm bản quyền ở Việt Nam diễn biến phức tạp, phổ biến ở nhiều lĩnh vực đời sống xã hội khác nhau. Vậy, pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về mức phạt hành vi xâm phạm bản quyền ? Các biện pháp tránh việc xâm phạm bản quyền hiện nay ? Luật sư tư vấn và giải đáp cụ thể:

1. Quy định về xử phạt vi phạm bản quyền với cá nhân, công ty ?

Kính gửi công ty luật Minh Khuê, Tôi có một vấn đề rất mong muốn nhờ sự tư vấn của công ty. Máy tính cá nhân của tôi có sử dụng trái phép phần mềm nx (một phần mềm thiết kế) với mục đích cá nhân để học tập nâng cao kiến thức. Trên máy tính của tôi có sử dụng mail của công ty tôi đang làm việc. Công ty của tôi không có nhu cầu sử dụng phần mềm đó.Tôi có mang máy tính tới công ty 1 lần và cũng rất ít khi sử dụng nó ở nhà. Hiện tại bên công ty phần mềm có phản hồi tới công ty tôi về việc tôi đang sử dụng trái phép phần mềm của họ và muốn khởi kiện công ty của tôi. Chi phí họ đưa ra rất rất cao với khả năng chi trả của tôi. Vậy cho tôi xin hỏi tôi sẽ bị xử lý như thế nào nếu đưa ra pháp luật ?

Rất mong được sự tư vấn từ công ty.

Luật sư trả lời:

Điều 25 và Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định như sau:

“Điều 25. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao

1. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm:

a) Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;

b) Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình;

c) Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu;

d) Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại;

đ) Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu;

e) Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hoá, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào;

g) Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy;

h) Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó;

i) Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị;

k) Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.

2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

3. Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.

Điều 26. Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao

1. Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để thực hiện chương trình phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của Chính phủ.

2. Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.

3. Việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh.”

Như vậy, có thể thấy rằng nếu như tác phẩm “chương trình máy tính” này đã được công bố mà bạn tự “Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân;” thì bạn sẽ không phải trả tiền nhuận bút, thù lao. Tuy nhiên theo dữ liệu bạn đưa ra thì bạn sao chép một bản nhằm mục đích “học tập nâng cao kiến thức” do đó, nếu đối chiếu theo quy định pháp luật trên thì hành vi của bạn là hành vi đã vi phạm quy định pháp luật sở hữu trí tuệ.

Trong trường hợp này bạn có thể bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 18 Nghị định 131/2013/ND-CP, cụ thể:

“Điều 18. Hành vi xâm phạm quyền sao chép tác phẩm

1. Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng đối với hành vi sao chép tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả.

2. Biện pháp khắc phục hậu quả:

Buộc dỡ bỏ bản sao tác phẩm vi phạm dưới hình thức điện tử, trên môi trường Internet và kỹ thuật số hoặc buộc tiêu hủy tang vật vi phạm đối với hành vi quy định tại Khoản 1 Điều này.”

Trong trường hợp nếu công ty phần mềm máy tính trên yêu cầu bạn, công ty bạn phải chịu trách nhiệm bồi thường thì theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì buộc công ty đó phải chứng minh thiệt hại mà bạn đã gây ra cho họ.

Trân trọng./.

2. Thế nào là vi phạm bản quyền?

Trả lời:Vi phạm bản quyền là sao chép lại hay là lưu chuyền tác phẩm của người khác mà không xin phép, trái phép hoặc không ghi rõ nguồn và tên tác giả chính thức. Thậm chí trầm trọng là có thể công bố thêm hay gây hiểu lầm là các công trình đó là của mình sáng tạo ra (đạo văn, đạo nhạc). Đây đều được xem là vi phạm quyền tác giả sở hưu trí tuệ.

Đối tượng quyền sở hữu trí tuệ:

1. Đối tượng quyền tác giả bao gồm tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.

2. Đối tượng quyền sở hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.

3. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và vật liệu thu hoạch

Theo Khoản 1 Điều 6 Luật sở hữu trí tuệ 2005:

“Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký”.

Việc bạn sao chép mà chưa có sự đồng ý của tác giả thì bạn đã vi phạm quyền tác giả, vi phạm bản quyền. Trường hợp trên mạng có nhiều video và tài liệu viết về Nick Vujjcic đó có thể là đã được sự cho phép của tác giả, được tác giả chuyển giao quyền…hoặc là họ có quyền liên quan phát sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá được định hình hoặc thực hiện mà không gây phương hại đến quyền tác giả.

Các dạng vi phạm bản quyền khác có thể bao gồm từ việc sao chép, mô phỏng lại các thương hiệu (trade mark) hay các biểu hiệu (logo) của một tổ chức, cho đến việc sao chép các chi tiết có tính hệ thống mà phải qua một trình tự thời gian dài mới chứng minh được. Những vi phạm này thường rất khó phân định và nhiều lúc phải tốn nhiều thời gian cũng như tài lực để chứng minh trước toà án rằng có hay không có sự vi phạm về bản quyền.

Rất mong nhận được sự hợp tác! Trân trọng./.

3. Thực tiễn định giá tang vật để giải quyết vi phạm bản quyền như thế nào?

Theo yêu cầu của chủ sở hữu kiểu dáng công nghiệp (KDCN) xe máy, cơ quan quản lý thị trường (QLTT) đã kiểm tra và phát hiện 106 xe máy xâm phạm KDCN. Để có căn cứ xác định khung tiền phạt và số tiền phạt cụ thể, cơ quan QLTT đã xác định giá trị của các chi tiết xâm phạm đối với xe xâm phạm kiểu dáng xe Future Neo.

Các chi tiết tạo nên KDCN xâm phạm là toàn bộ phần đầu xe (cụm đèn pha, đèn xi nhan). QLTT định giá 30.000 đ/bộ, nhưng giá thực tế của cụm đầu xe này do Sở Tài chính xác định, cung cấp cho cơ quan điều tra là 90.000 đ/bộ (thời điểm tháng 9.2008) và 76.000 đ/bộ (thời điểm tháng 3.2009).

Đối với ốp sườn trước trái, phải (vè), QLTT định giá 50.000 đ/bộ nhưng Sở Tài chính xác định giá thực tế là 100.000-116.000 đ/bộ. Đối với chắn bùn sau (vè sau), QLTT định giá 20.000 đ/bộ nhưng Sở Tài chính định giá theo thực tế ngoài thị trường đến 50.000 đ/bộ.

Theo đó, mức giá của Sở Tài chính xác định dao động từ 425.000 đến 450.000 đ/bộ linh kiện có yếu tố xâm phạm, trong khi Chi cục QLTT thẩm định chỉ có 170.000-180.000 đ/bộ.

Trên cơ sở giá trị các chi tiết do Sở Tài chính xác định với tổng số xe xâm phạm là 106 xe, cơ quan cảnh sát điều tra cho rằng, có sự chênh lệch khi định giá giá trị lô hàng này, dẫn tới định giá sai làm thiệt hại cho Nhà nước. Cơ quan cảnh sát sẽ xem xét đề nghị xử lý theo hướng khởi tố vụ án hình sự hoặc xử lý hành chính, tùy theo mức độ sai phạm và tổng giá trị tài sản sau khi được thẩm định giá chính xác.

Lời bình

1. Cơ quan QLTT đã xác định 106 xe là tang vật của vụ xâm phạm quyền về KDCN, vì trên các xe này có các yếu tố xâm phạm”. Đó là cácyếu tố được tạo ra từ hành vi xâm phạm. Đối với KDCN đó là sản phẩm, phần sản phẩm bị coi là yếu tố xâm phạm quyền đối với KDCN thuộc trường hợp là trên sản phẩm hoặc phần sản phẩm bị xem xét, kể cả trường hợp đã được cấp Bằng độc quyền KDCN, có tập hợp các đặc điểm tạo dáng hợp thành một tổng thể là bản sao hoặc về bản chất là bản sao (gần như không thể phân biệt được sự khác biệt) KDCN của chủ sở hữu khác đã được bảo hộ mà không được sự đồng ý của người đó.

Cụ thể trong trường hợp này, đối với xe vi phạm kiểu dáng xe Future Neo gồm toàn bộ phần đầu xe (cụm đèn pha, đèn xi nhan), ốp sườn trước trái, phải (vè), chắn bùn sau (vè sau) và một số chi tiết khác là các chi tiết có yếu tố xâm phạm.

Như vậy, việc xác định 106 xe này có các yếu tố xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (SHCN) đối với KDCN là đúng quy định.

2. Về thẩm quyền xác định giá trị tang vật xâm phạm. Để có thể xác định khung tiền phạt theo quy định của Nghị định số 106/2006/NĐ-CP ngày 22.9.2006, QLTT đã tiến hành xác định giá của các chi tiết này. Điều 28 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP quy định cơ chế xác định giá thực hiện như sau: Hàng hoá xâm phạm là phần (bộ phận, chi tiết) của sản phẩm có chứa yếu tố xâm phạm có thể lưu hành như một sản phẩm độc lập. Trường hợp không thể tách rời yếu tố xâm phạm thành phần sản phẩm độc lập thì hàng hoá xâm phạm là toàn bộ sản phẩm chứa yếu tố xâm phạm.

Giá trị hàng hoá xâm phạm do cơ quan xử lý xâm phạm xác định tại thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm, dựa trên các căn cứ theo thứ tự ưu tiên sau: Giá niêm yết của hàng hoá xâm phạm; giá thực bán của hàng hoá xâm phạm; giá thành của hàng hoá xâm phạm (nếu chưa được xuất bán); giá thị trường của hàng hoá tương đương có cùng chỉ tiêu kỹ thuật, chất lượng.

Giá trị hàng hóa xâm phạm được tính theo phần (bộ phận, chi tiết) sản phẩm xâm phạm và trên tổng số tang vật xâm phạm (trong trường hợp này là 106 xe).

Theo quy định của Điều 28 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP, QLTT là cơ quan thụ lý vụ xâm phạm quyền này nên cũng là cơ quan xác định giá tại thời điểm xảy ra hành vi xâm phạm. Do đó, việc QLTT xác định giá để làm căn cứ áp dụng khung tiền phạt quy định tại Nghị định số 106/NĐ-CP là đúng thẩm quyền.

3. Vấn đề nảy sinh ở đây là, giá trị từng chi tiết do QLTT và Sở Tài chính xác định có sự chênh lệch. Theo đó, mức giá của Sở Tài chính xác định dao động từ 425.000 đến 450.000 đ/bộ linh kiện, Chi cục QLTT xác định chỉ có 170.000-180.000 đ/bộ.

Trong trường hợp này sử dụng giá do cơ quan nào xác định để làm căn cứ xác định khung tiền phạt? Nghị định số 105/2006/NĐ-CP đã lường trước trường hợp giữa cơ quan tài chính và các cơ quan có thẩm quyền xử phạt không thống nhất về việc xác định giá. Vì vậy, Điều 28 của Nghị định đã quy định: Trường hợp giữa cơ quan xử lý xâm phạm (trong trường hợp này là QLTT) và cơ quan tài chính cùng cấp (Sở Tài chính) không thống nhất về việc xác định giá trị hàng hoá xâm phạm thì việc định giá do Hội đồng xác định giá trị hàng hoá xâm phạm quyết định. Việc thành lập, thành phần, nguyên tắc làm việc của Hội đồng xác định giá trị hàng hoá xâm phạm thực hiện theo quy định của pháp luật.

Theo Điều 34, Nghị định số 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính, trong trường hợp không áp dụng được các căn cứ quy định để định giá tang vật xâm phạm thì cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt thành lập Hội đồng định giá. Hội đồng định giá phải có sự tham gia của đại diện trung tâm dịch vụ bán đấu giá cấp tỉnh hoặc đại điện cơ quan tài chính cấp huyện. Căn cứ vào tính chất, đặc điểm của từng vụ việc, người ra quyết định thành lập Hội đồng quyết định các thành viên của Hội đồng bao gồm đại diện cơ quan chuyên môn có liên quan. Như vậy trong trường hợp này, không thể sử dụng kết quả định giá của Sở Tài chính để tính giá trị lô hàng 106 xe máy xâm phạm KDCN và kết luận QLTT làm sai mà phải sử dụng kết quả xác định giá của tổ chức thứ 3 là Hội đồng. Kết quả này sẽ là căn cứ để áp dụng khung tiền phạt tương ứng.

4. Việc cho rằng sau khi xác định lại giá trị lô hàng xâm phạm KDCN, thì có thể sẽ căn cứ vào giá trị lô hàng xâm phạm có giá trị nhỏ hay lớn để cân nhắc xử lý hành chính hay sẽ khởi tố vụ án để áp dụng biện pháp hình sự đối với cơ sở vi phạm là có căn cứ hay không?

Việc áp dụng biện pháp hình sự để xử lý các vụ việc xâm phạm quyền SHCN phải căn cứ vào Bộ luật Hình sự và Thông tư hướng dẫn liên ngành của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp.

Theo Thông tư này, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền SHCN phải thuộc một trong các trường hợp xâm phạm lần đầu nhưng hành vi là từ nghiêm trọng trở lên và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “xâm phạm quyền SHCN” theo khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự: Đã thu được lợi nhuận từ 10 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng/gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu nhãn hiệu từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng/hàng hóa vi phạm có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 150 triệu đồng. Nếu các giá trị này ở các mức trên thì bị coi là rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Ngoài điều kiện đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi để truy cứu trách nhiệm hình sự, Thông tư còn quy định phải theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Theo đó, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự khi có yêu cầu của chủ sở hữu quyền.

Giả thiết rằng, các điều kiện trên đều đáp ứng thì liệu trong vụ việc cụ thể này có thể khởi tố vụ án hình sự để truy cứu theo Điều 171 về tội xâm phạm quyền SHCN được không? Câu trả lời trong trường hợp này là không thể.

Lý do không thể là vì việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội xâm phạm quyền SHCN quy định tại Điều 171 Bộ luật Hình sự chỉ áp dụng đối với hành vi giả mạo với đối tượng là giả mạo nhãn hiệu và chỉ dẫn địa lý. Các đối tượng SHCN khác như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tên thương mại, bí mật kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh dù giá trị tang vật lớn đến đâu cũng chỉ bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp dân sự.

4. Mức sử phạt hành chính đối với sáng chế như thế nào?

Điều 11. Hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế

Khi xác định hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế phải tuân theo quy định tại các điều 5 và 8 Nghị định 105/2006/NĐ-CP sửa đổi và một số hướng dẫn sau:

1. Sản phẩm/bộ phận sản phẩm/quy trình bị xem xét được coi là trùng hoặc tương đương với sản phẩm/bộ phận sản phẩm/quy trình được bảo hộ theo một điểm nào đó (độc lập và phụ thuộc) của yêu cầu bảo hộ thuộc Bằng độc quyền sáng chế/Bằng độc quyền giải pháp hữu ích nếu tất cả các dấu hiệu (đặc điểm) kỹ thuật cơ bản được nêu trong điểm đó đều có mặt trong sản phẩm/bộ phận sản phẩm/quy trình bị xem xét dưới dạng trùng hoặc tương đương, trong đó:

a) Hai dấu hiệu (đặc điểm) kỹ thuật được coi là trùng nhau nếu dấu hiệu đó có cùng bản chất, cùng mục đích sử dụng, cùng cách thức đạt được mục đích và cùng mối quan hệ với các dấu hiệu khác nêu trong yêu cầu bảo hộ;

b) Hai dấu hiệu (đặc điểm) kỹ thuật được coi là tương đương với nhau nếu có bản chất tương tự nhau hoặc có thể thay thế cho nhau, có mục đích sử dụng và cách thức để đạt được mục đích sử dụng cơ bản giống nhau.

2. Nếu sản phẩm/bộ phận sản phẩm/quy trình bị xem xét không chứa ít nhất một dấu hiệu (đặc điểm) kỹ thuật cơ bản nêu trong một điểm nào đó của yêu cầu bảo hộ thì sản phẩm/bộ phận sản phẩm/quy trình bị xem xét được coi là không trùng/không tương đương với sản phẩm/bộ phận sản phẩm/quy trình được bảo hộ theo điểm đó.

5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về quyền sáng chế là ai?

Điều 15. Thẩm quyền xử phạt

1. Thanh tra Khoa học và Công nghệ có thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm quy định tại Chương II của Nghị định này.

2. Thanh tra Thông tin và Truyền thông có thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm quy định tại Điểm a Khoản 16 Điều 14 của Nghị định này.

3. Quản lý thị trường có thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm sau đây:

a) Hành vi vi phạm quy định tại Điều 12 và Điều 13 của Nghị định này trong hoạt động sản xuất, buôn bán, vận chuyển, tàng trữ hàng hóa tại thị trường trong nước;

b) Hành vi vi phạm quy định tại các Điều 6, 9, 11 và 14 của Nghị định này trong hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng hóa tại thị trường trong nước. Trong trường hợp xử lý hành vi vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều này mà xác định được cơ sở sản xuất loại hàng hóa đó thì Quản lý thị trường có thẩm quyền tiếp tục xử lý hành vi vi phạm tại cơ sở sản xuất.

4. Hải quan có thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm quy định tại các Điều 6, 9, 10, 11, 12, 13 và 14 của Nghị định này trong hoạt động quá cảnh, nhập khẩu hàng hóa.

5. Công an có thẩm quyền phát hiện, xác minh, thu thập thông tin, chứng cứ các hành vi xâm phạm quyền về sở hữu công nghiệp và cung cấp cho các cơ quan xử lý vi phạm quy định tại các Khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này; có thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm quy định tại các Điều 9, 12 và 13 của Nghị định này.

6. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp xảy ra tại địa phương theo nguyên tắc xác định và phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính quy định tại Điều 38 và Điều 52 của Luật xử lý vi phạm hành chính.

========================================================

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT TNHH ĐỖ GIA VIỆT

Giám đốc - Luật sư:  Đỗ Ngọc Anh Công ty luật chuyên:
Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Văn phòng luật sư Hải Phòng: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm, Quận Hải An, Hải Phòng.
Điện thoại: 0944 450 105
Email: [email protected]
Hệ thống Website:
www.luatsungocanh.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai #thuhoino
Bài trướcTư vấn doanh nghiệp và các vấn đề pháp lý liên quan
Bài tiếp theoChuyển nhượng thương hiệu