Thời hạn điều tra và ra Quyết định truy nã

0
1132

Xin hỏi trong trường hợp tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự khi có căn cứ chưa xác định được bị can hoặc không biết bị can đang ở đâu mà thời hạn điều tra đã hết. Thời hạn điều tra đã hết là như thế nào? Là thời hạn điều tra ban đầu hay là thời hạn điều tra bao gồm cả thời hạn gia hạn? 2. Khi đang điều tra mà xác định được bị can bỏ trốn thì xử lý như thế nào? Phải ra ngay Quyết định truy nã, rồi khi hết hạn điều tra mới tạm đình chỉ hay phải chờ hết hạn điều tra rồi ra Quyết định truy nã sau đó tạm đình chỉ?

Luật sư Ngọc Anh – Ban tư vấn pháp luật hình sự trả lời:

1. Thời hạn điều tra theo quy định tại Điều 172 BLTTHS năm 2015 được tính như sau:
“1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn điều tra, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra một lần không quá 02 tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá 03 tháng và lần thứ hai không quá 02 tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá 04 tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
3. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết nhưng do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.
4. Trường hợp thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, nhập vụ án thì tổng thời hạn điều tra không vượt quá thời hạn quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này.”
Như vậy, thời hạn điều tra được hiểu là thời hạn điều tra ban đầu theo quy định tại khoản 1 Điều 172 và cả thời gian được gia hạn thêm theo quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 172 BLTTHS năm 2015. Tổng thời hạn điều tra ngay cả trong trường hợp thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, nhập vụ án không vượt quá thời hạn quy định tại các khoản 1,2 và 3 Điều 172 BLTTHS, hết thời hạn nêu trên được xem là hết thời hạn điều tra.
2. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 229 BLTTHS năm 2015, thì “trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra” Như vậy, trường hợp đang điều tra mà xác định được bị can bỏ trốn thì Cơ quan điều tra phải ra Quyết định truy nã bị can, sau đó ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra.
Việc ban hành quyết định tạm đình chỉ điều tra không phụ thuộc vào việc hết thời hạn điều tra hay chưa mà phụ thuộc vào thực tiễn giải quyết vụ án của các cơ quan tiến hành tố tụng.

========================================================

ĐOÀN LUẬT SƯ HÀ NỘI

CÔNG TY LUẬT TNHH ĐỖ GIA VIỆT

Giám đốc - Luật sư:  Đỗ Ngọc Anh Công ty luật chuyên:
Hình sự - Thu hồi nợ - Doanh nghiệp – Đất Đai – Trọng tài thương mại – Hôn nhân và Gia đình.
Văn phòng luật sư quận Cầu Giấy:  Phòng 6 tầng 14 tòa nhà VIMECO đường Phạm Hùng, phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Văn phòng luật sư quận Long Biên: Số 24 ngõ 29 Phố Trạm, Phường Long Biên, Quận Long Biên, Hà Nội
Văn phòng luật sư Hải Phòng: Số 102, Lô 14 đường Lê Hồng Phong, Phường Đằng Lâm, Quận Hải An, Hải Phòng.
Điện thoại: 0944 450 105
Email: [email protected]
Hệ thống Website:
www.luatsungocanh.vn
#luatsubaochua #luatsutranhtung #luatsuhinhsu #luatsudatdai #thuhoino
Bài trướcBằng chứng khi bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm ? Mức phạt hành vi làm nhục người khác
Bài tiếp theoDùng vũ khí đập vào đầu người khác gây thường tích có được xem là dùng hung khí nguy hiểm được quy định tại tội cố ý gây thương tích hay không?